Hòa thượng Thích Đức Nhuận (1897 – 1993) là Đệ nhất Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, từ năm 1981 đến năm 1993.
- THÂN THẾ:
Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận (ảnh), Pháp hiệu Thanh Thiệu, Pháp danh Đức Huy, thế danh Phạm Đức Hạp, sinh năm Đinh Dậu (1897) tại thôn Quần Phương, xã Hải Phương, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định (nay là tỉnh Hà Nam). Thân phụ là cụ Phạm Công Toán hiệu Thành Phủ, thân mẫu là cụ Lê Thị Vụ. Ngài là con thứ 6 trong gia đình có 8 anh chị em.
Sinh trưởng trong một gia đình nề nếp Nho phong, ngài bắt đầu đi học từ năm 7 tuổi. Thân phụ ngài vốn là một danh Đông y, được Sư Tổ chùa Đồng Đắc (tỉnh Ninh Bình) mời sang để chế thuốc cứu giúp dân làng. Do được theo hầu thân phụ, dần dần ngài mến mộ cảnh yên tịnh chốn Thiền môn. Năm 15 tuổi (Nhâm Tý – 1912) một thời điểm chuyển mình thoát tục, ngài nhận chân cuộc đời là vô thường, thân người là giả tạm, nên ngài xin phép song thân xuất gia đầu Phật.
Ngài sơ tâm cầu pháp với Sư Tổ Thích Thanh Nghĩa (thuộc dòng Tào Động, chùa Quảng Bá – Hà Nội), trụ trì chùa Đồng Đắc, xã Đồng Hướng, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
Sau khi thế phát quy y, ngài được nghiệp sư gởi đến chùa Thanh Nộn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, học đạo với Sư Tổ Thích Thanh Ninh. Với đức hạnh khiêm cung, siêng năng, hiếu học ngài luôn được Sư Tổ thương yêu và kỳ vọng là pháp khí của tùng lâm.
Năm 20 tuổi (1917), xuân đạo lý đã đơm bông trí tuệ, tâm bồ-đề thơm ngát tỏa giới hương, ngài được Tôn Sư cho thụ giới Cụ túc tại chùa Phúc Nhạc (Già Lê tự) tỉnh Ninh Bình. Giới đàn này gồm các bậc cao Tăng thạc đức như Sư Tổ Thích Thanh Khiết làm Hòa thượng Đàn đầu, Sư Tổ Thích Trung Ninh làm Yết-ma, Sư Tổ Thích Thanh Phúc làm Giáo thọ, Sư Tổ Thích Khang Thượng, Sư Tổ Thích Thanh Nghĩa làm Tôn chứng. Từ đây, ngài thực sự dự vào hàng Tăng bảo với trọng trách: “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa quần sinh”.
II. THỜI KỲ XUẤT GIA TU HỌC:
Sau khi đắc pháp, ngài tiếp tục hành cước, tham học ở các chốn Tổ lớn như chốn Tổ Đào Xuyên (huyện Gia Lâm – Hà Nội) do Tổ Giám Thông Mệnh giảng dạy, chốn Tổ Bằng (huyện Thường Tín – Hà Tây) và chốn Tổ Sở (Đống Đa – Hà Nội) do Sư Tổ Phan Trung Tứ thuyết pháp. Trải qua bao năm tháng chuyên tâm tu học tại các chốn Tổ này, Đức Pháp chủ trở thành một bậc đạo hạnh trong sáng, không những uyên thâm Phật học mà còn quán triệt cả Khổng giáo, Lão giáo, trở thành tiêu đích cho hàng Tăng, Ni, Phật tử ngưỡng mộ, quy tâm.
Năm 42 tuổi, nhằm mục đích vị tha, dấn thân trong đại nguyện cứu khổ, độ sinh ngài đã phát tâm thọ giới Bồ-tát, do Sư Tổ Thích Doãn Hải, viện chủ chùa Tế Xuyên (tỉnh Hà Nam) chứng đàn.
III. SỰ NGHIỆP HÓA ĐẠO:
Năm 1940, sau khi nghiệp sư viên tịch, ngài trở về thừa kế, trụ trì chùa Đồng Đắc, Phật sự đầu tiên được đặt ra trong tâm trí ngài là đào tạo Tăng tài, tổ chức Giáo hội – ngài liền thành lập 2 Trường Phật học, một ở chùa Đồng Đắc (xã ĐồngHướng, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình), và một ở chùa Kỳ Lân (thôn Đại Hữu, xã Văn Bồng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình).
Ngài luôn được chư Tăng Ni, Phật tử cung thỉnh làm chủ hạ các Trường hạ như Trường hạ chùa Phúc Nhạc (Già Lê tự), Trường hạ chùa Đại Hữu, Trường hạ chùa Sơn Thủy (Non Nước), Trường hạ chùa Lê Xá (huyện Gia Viễn), Trường hạ chùa Bà Đá (Hà Nội)… Ngài luôn nêu cao uy mãnh Thích Hải Côn bằng tiêu biểu cho ngôi vị Tùng lâm Pháp chủ.
Với đức độ tu hành, giới luật tinh nghiêm, khoảng năm 1950, Hội Phật giáo tỉnh Ninh Bình cung thỉnh ngài giữ chức Giám Luật Phật giáo tỉnh Ninh Bình để làm tiêu đích cho Tăng, Ni, Phật tử trên con đường tiến tu Tam Vô lậu học.
Năm 1955, sau khi hòa bình lập lại, ngài được cố Hòa thượng Tuệ Tạng, Thượng thủ Giáo hội Tăng già toàn quốc, Hòa thượng Mật Ứng – Trị sự trưởng Giáo hội Tăng già Bắc Việt, cùng các ông Nhất Kinh Phương, Trần Quang Trung đại diện Mặt trận thủ đô Hà Nội mời về thủ đô Hà Nội để chung lo Phật sự.
Trong thời gian này, ngài được thỉnh về trụ trì chùa Phổ Giác tự (Đống Đa – Hà Nội). Từ ngôi chùa này, ngài thường xuyên sang trụ sở Trung ương Giáo hội chùa Quán Sứ, để làm việc. Về sau, do nhu cầu của Giáo hội, ngài đã ở tại chùa Quán Sứ, và sau đó một thời gian được bổ nhiệm ngôi vị trụ trì chùa Quán Sứ.
Năm 1956, ngài được bầu làm Trị sự phó Giáo hội Tăng già Bắc Việt, kiêm đại diện Phật giáo thủ đô.
Năm 1957, ngài là một trong những thành viên trong Đoàn đại diện đại biểu Phật giáo Việt Nam đến hội kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh và Phó Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại Phủ Chủ tịch.
Tháng 3 năm 1958, Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam thành lập do Sư cụ Trí Độ làm Hội trưởng, ngài được Đại hội suy cử làm Phó Hội trưởng Hội Phật giáo Thống Nhất Việt Nam.
Năm 1969, ngài về trụ trì chùa Quảng Bá (Hoàng Ân tự), xã Quảng An, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Cũng trong năm này, Hội Phật giáo Thống Nhất Việt Nam mở trường tu học Phật pháp Trung ương tại đây và thỉnh ngài làm Hiệu trưởng. Đây là một ngôi trường có tổ chức đầu tiên sau ngày miền Bắc giải phóng. Ngài trụ trì giáo hoá độ chúng ở Quảng Bá hơn 20 năm trước khi về chùa Hồng Phúc (Hòe Nhai).
Năm 1979, sau khi Hòa thượng Thích Trí Độ, Hội trưởng Hội Phật giáo Thống Nhất Việt Nam thị tịch, ngài được suy cử làm quyền Hội trưởng cho đến ngày thống nhất Phật giáo cả nước năm 1981.
Để có nơi an táng Tăng, Ni, Phật tử sau khi mãn phần, năm 1980 ngài đứng ra xin phép Nhà nước thành lập nghĩa trang tại chùa Huỳnh Cung, xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Cũng trong năm này, ngài nhận lãnh chức vụ trụ trì tổ đình Hồng Phúc cho đến khi viên tịch.
Năm 1980, trong bối cảnh cả nước hoàn toàn độc lập thống nhất, Tăng Ni, Phật tử cả nước mong muốn thực hiện ý nguyện thống nhất Phật giáo Việt Nam. Ban Vận động Thống nhất Phật giáo ra đời, do cố Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Trưởng ban, ngài được cung thỉnh vào hàng Chứng minh của Ban Vận động Thống nhất Phật giáo cả nước.
Tháng 11-1981, Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam diễn ra tại chùa Quán Sứ, thủ đô Hà Nội, để thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Tại Hội nghị toàn thể đại biểu nhất tâm cung thỉnh ngài đảm nhận ngôi vị Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cũng tại Đại hội ngài đã đề nghị ba điểm: Được mở Trường Cao cấp Phật học tại ba miền Nam, Trung, Bắc và các Trường Cơ bản Phật học tại các tỉnh; Tăng, Ni được phép xuất gia tu học; được hoạt động tự do tín ngưỡng tại các cơ sở tự viện trong cả nước. Đề nghị trên đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng chấp nhận và hứa sẽ thực hiện.
Từ Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo (1981) cho đến Đại hội Phật giáo kỳ 3 (1992) ngài luôn được Tăng, Ni, Phật tử cả nước tín nhiệm và tiếp tục suy tôn đảm nhiệm ngôi vị Pháp chủ cho đến ngày thị tịch.
Ngoài Phật sự, Đức Pháp chủ còn tham gia công tác từ thiện xã hội… Ngài được bầu làm Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong nhiều khóa. Ngài được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng nhất.
IV. THỜI GIAN VIÊN TỊCH:
Theo năm tháng, thân ngũ uẩn vô thường của Hòa thượng đã đến hồi tan hoại. Điều đặc biệt, cho đến ngày sắp viên tịch, trở về với thế giới vĩnh hằng, Hòa thượng vẫn tỉnh giác tự tại, biểu thị một hiện thân của Bồ-tát giới đức trang nghiêm, thanh tịnh, sinh tử nhàn nhi dĩ khứ lai vô ngại.
Hòa thượng đã an nhiên thu thần nhập diệt vào lúc 05giờ 05 phút sáng ngày 11 tháng 11 âm lịch (Quý Dậu), nhằm ngày 23-12-1993, trụ thế 97 năm, hạ lạp trải qua 77 mùa an cư kiết hạ.
Xuất thế giới hạnh tinh nghiêm, nhập thế lợi lạc quần sanh, Đức Pháp chủ luôn khơi dòng trí tuệ Văn Thù và thể hiện hạnh nguyện Phổ Hiền tốt đời đẹp đạo. Nhờ đó, toàn thể Phật tử Việt Nam được thấm nhuần thâm ơn pháp nhũ và lượng cả từ bi của ngài. Ngài đã thâu thần thị tịch, toàn thể Tăng Ni, Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước xin đê đầu kính lạy những bước chân giải thoát của bậc “xuất trần thượng sĩ”, và nguyện noi theo gương sáng của ngài trên con đường hoằng dương Phật pháp, lợi lạc quần sanh…
GHPGVN