TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG THÍCH VIÊN THÀNH
- Ủy viên thường trực Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
- Phó ban Giáo dục Tăng ni, Phó ban Văn hóa, Phó ban Từ thiện xã hội, Ủy viên ban Hoằng pháp Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
- Phó trưởng ban thường trực kiêm chánh thư ký tỉnh hội Phật giáo tỉnh Hà Tây.
- Phó hiệu trưởng trường cơ bản Phật học tỉnh Hà Tây.
- Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tây.
- Ủy viên Ủy ban Mặt trận tổ quốc tỉnh Hà Tây.
- Trưởng Ban Trị Sự Phật giáo tỉnh Phú Thọ.
- Trụ trì chùa Hương và chùa Thầy tỉnh Hà Tây (Hà Nội).
I. THÂN THẾ
Hòa Thượng Thích Viên Thành, thế danh Phùng Xuân Đào, sinh ngày 15 tháng 07 năm 1950 (mùng 01 tháng 06 năm Canh Dần) tại làng Thượng Cát, xã Thượng Cát, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Thân phụ là cụ ông Phùng Xuân Chỉ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Thìn.Ngài sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống thâm tín ngôi Tam Bảo có hai người cô ruột là sư cụ Thích Đàm Mậu và sư cụ Thích Đàm Ngọ, trụ trì chùa Bi, tỉnh Vĩnh Phúc.
II. XUẤT GIA TU HỌC
1. Xuất gia
Khi Hòa Thượng mới chào đời thì thân phụ đã sớm quy Tây. Ngài lớn lên trong tình yêu thương của bà và mẹ. Trước cảnh sinh ly tử biệt, Ngài đã nhận ra được lẽ vô thường của kiếp nhân sinh, nên Hòa Thượng đã quyết chí xuất gia cầu đạo vào năm 12 tuổi và để lại thơ rằng:
“Chú ơi ! Xin chú hiểu lòng tôi
Giờ phút chia tay đã đến rồi
Vẫn biết gia phong cần giữ đấy
Nhưng vì chân lý phải đành thôi
Chú ơi ! Ân nghĩa cháu không quên
Nguyện chứng Chân như sẽ báo đền
Chú ở lại nhà xây tổ nghiệp
Cháu đi cầu Pháp cứu oan khiên
Kẻ vun cội phúc cho tươi tốt
Người đắp nền nhân thật vững bền
Chú cứ yên tâm đừng có ngại
Cháu thề cố gắng quyết tu lên.”
Hòa Thượng được sư cụ Thích Đàm Viễn trụ trì chùa Khánh Sơn (tức chùa Cao Lá), xã Thanh Mỹ, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Sơn Bình (nay làthành phố Hà Nội) tiếp duyên.
Năm 15 tuổi, Ngài được sư tổ Thích Thanh Trân- Hương Tích động chủ đời thứ 10, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Sơn Bình chính thức thu nhận làm đệ tử.
Năm 19 tuổi, Ngài được Hòa Thượng Nghiệp Sư cho thụ giới Sa Di. Sau khi đắc giới, Hòa Thượng luôn tinh tiến hành đạo, đến năm 1972,Hoà Thượng chính thức được đăng đàn thụ Cụ túc giới, viên mãn Giới châu tuệ mệnh tại tỉnh hội Phật giáo Hà Sơn Bình.
2. Tu học
Khi Ngài còn đương theo hầu Hòa Thượng Tônsư tại chốn Tổ Hương Tích, Hòa Thượng được thầy Bản sư truyền dạy cho những tinh yếu cốt tủy của Mật Thừa nên Ngài luôn đau đáu một lòng muốn làm sống lại bản Pháp của dòng phái mà chư Tổ đời trước đã truyền lại, nhưng do chiến tranh thực dân Pháp nhiều lần tàn phá và tiêu hủy khiến những thư tịch của Hương Tíchkhông còn nguyên vẹn. Hòa Thượng luôn luôn tinh tiến hành trì lễ bái, không quản ngày đêm cầu nguyện sớm tìm lại được những gì đã thất lạc, mong ngày nhân duyên hội đủ, giáo Pháp của chư Tổ được xiển dương, mạng mạch chốn Tổ mãi mãi được lưu truyền, tông phong Hương Tích đời đời được vĩnh chấn.
Nhận thấy Hòa Thượng là người căn cơ xuất chúng sẽ là bậc Pháp khí trong Thiền gia mai này, nên Tổ đã cho phép Hòa Thượng xuống núi, theo học lớp Trung cấp Phật học tại chùa Quảng Bá và chùa Quán Sứ Hà Nội, niên khóa 1973 – 1976. Trong thời gian tu học tại chùa Quán Sứ, Hòa Thượng không những là ngườitinh thông về học thuật, mà còn Giới luậtnghiêm trì. Mùa hè năm 1978, Ngài được cư sĩ Nguyễn Duy Phương dâng tặng bộ Đại Nhật Kinh sớ bản Hán văn do cố Đại lão Hòa Thượng Thích Đức Nhuận, đệ nhất Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam trao lại. Nhận được Kinh văn, Hoà Thượng như người vừa tìm thấy viên ngọc quý của mình đã bị thất lạc từ lâu, Ngàiliền thành lập nhóm để phiên dịch và căn cứ vào đó để tu tập, soạn ra các nghi quỹ hành trì Mật giáo, rộng truyền Mật pháp, chính thức thành lậpđạo tràng Chân – Tịnh tại thành phố Hà Nội và nhiều tỉnh thành khác như Việt Trì, Thái Nguyên, Hồ Chí Minh… đồng thời truyền bá sang các nước phương Tây (Nga, Ba Lan, Pháp, Đức….) cho các đệ tử của Ngài đang sinh sống và làm việc. Nhóm phiên dịch bộ kinh này bắt đầu từ năm 1978 đến năm 1980 thì hoàn thành bản thảo, nhưng chưa đủ duyên để xuất bản.
Hòa Thượng là bậc tuệ học tinh thông, uy đức sư tượng, nên khi tốt nghiệp, Ngài được Giáo hội tuyển thẳng vào Trường Cao cấp Phật học Việt nam (nay là Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội) khóa I, niên khóa 1981 – 1985.
Năm 1985 sau khi Hoà Thượng tốt nghiệp trường Cao cấp Phật học Việt Nam, Ngài trở về chốn Tổ Hương Tích phụng sự Tam Bảo và bắt đầu sự nghiệp hoằng truyền Phật pháp.
III. HOẰNG DƯƠNG PHẬT PHÁP
Để báo đáp công đức của Chư Phật, Hoà Thượng thực hành tinh thần sứ giả của Như Lai (tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự), đem ánh sáng Trí Tuệ và đức Từ Bi của chư Phật truyền khắp cõi nhân gian. Ngài luôn quan tâm trăn trở trong việc đào tạo, giáo dục thế hệ Tăng Ni trẻ,đó cũng là sứ mệnh thiêng liêng mà Ngài hướng tới. Trên tinh thần đó, Hoà Thượng được cầu thỉnh làm Giáo Thọ Sư của trường Trung cấpPhật học và Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Hà nội.
Năm 1984, khi Hoà Thượng còn đang theo họcTrường cao cấp Phật học Việt Nam tại Hà nội,chính quyền và nhân dân xã Sài Sơn huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây tha thiết thỉnh cầu Ngài về trụ trì chùa Thầy, thánh tích của Tổ Từ Đạo Hạnh – bậc đắc Pháp Kim Cương Tổng Trì của Việt Nam cả ngàn năm về trước.
Năm 1985, Sư Tổ Thích Thanh Trân là bậc cao niên lạp trưởng, thạch trụ của Tùng lâm, đấng nương của Giáo hội, khi biết mình sắp được gọi về hầu Phật Tổ, Ngài đã truyền trao sự nghiệp Kế đăng trụ trì Tùng lâm Hương Tích cho Hoà Thượng để duy trì, phát triển hệ phái Hương Tích do chư tiền Tổ khai sáng và kế thừa Phật giáo Nhất tông nhà Trần, nối lại mạng mạch dòng Thiền Mật giáo Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Tuy chùa Hương được ảnh hưởng từ hai dòng phái Lâm Tế từ Tổ đệ ngũ và dòng Tào Động từ Tổ đệ bát sau này, nhưng không vì thế mà tư tưởng Phật giáo nhà Trần phai nhạt. Với đạo hạnh và uy đức của mình, Hòa Thượng đã từng bước khơi nguồn, làm sống lại Mật giáo Chùa Hương, chùa Thầy, xiển dương giáo nghĩa Mật TôngViệt Nam.
Năm 1987, tại Đại hội Phật giáo tỉnh Hà Tâynhiệm kì III, Hòa Thượng được bầu là Phó ban Trị Sự kiêm Chánh thư kí Tỉnh hội.
Đại hội Phật giáo Việt Nam, nhiệm kì III, Ngài được tấn phong vào hàng giáo phẩm Thượng Tọa chính thức được cử vào Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Vì tương lai, vì sự nghiệp mạng mạch của Phật pháp cần có sự nối truyền Hoà Thượng cùng chư Tôn Đức, Ban Trị Sự Giáo hội Phật giáo Tỉnh Hà Tây chính thức thành lập trường Trung cấp Phật học tỉnh nhà vào năm 1991. Ngài được tiếncử làm Phó hiệu trưởng thường trực của Trường.
Trong các Đại giới đàn của tỉnh Hà Tây được tổ chức, Hòa Thượng luôn được cầu thỉnh làm Thầy Tôn chứng và Thầy Yết ma.
Năm 1993, Hoà Thượng được bầu làm Ủy viên thường trực Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó ban từ thiện Trung ương và Ủy viên ban Hoằng pháp Trung ương.
Ngày 19 tháng 03 năm Quý Dậu (11/04/1993), nhân duyên cát tường hội đủ, theo lời mời của ông Terry Jones (Trưởng đại diện chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc tại Bhutan), Hòa thượng đã viếng thăm Vương quốc Bhutan, tại tu viện Anh Đào (Chagri Dorjeden Monastery hay Cheri Monastery) núi Cheri được hội ngộĐại lão Hòa Thượng His Holiness Je Khenpo Chabje Threzur Ngawang Tenzin Deondrup Rinpoche – bậc Kim Cương Thượng Sư Giáo chủ dòng truyền thừa Drukpa Bhutan để sam cứu giao lưu với Mật Tông nước bạn, Hòa Thượng được đức Giáo chủ Je Khenpo quán đỉnh điểm đạo, ấn chứng Hòa Thượng là bậc Kim Cương Thượng Sư đắc Pháp Tổng Trì của Mật Tông Việt Nam thời bấy giờ.
Năm 1998, Phật giáo tỉnh Hà Tây chọn chùa Thầy làm điểm An cư kết hạ cho Tăng Ni các huyện Quốc Oai, Thạch Thất, Hoài Đức…, Hòa Thượng được suy tôn lên ngôi Đường chủ của trường hạ cho đến khi viên tịch.
Năm 1998, Ban Trị Sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam suy cử Hòa Thượng giữ chức vụ Phó ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương, Trưởng ban Trị Sự Phật giáo tỉnh Phú Thọ.
Tháng 3 năm 1989, Hoà Thượng chính thức đảm nhận chức vụ Trưởng ban kiến thiết xây dựng và Tôn tạo chùa Hương (năm 1947, giặc Pháp đã phá huỷ hoàn toàn chùa Thiên Trù). Với trách nhiệm của người trụ trì, Hoà Thượng cùng các cơ quan ban ngành, nhân dân, Phật tử đã từng bước trùng tu xây dựng ngôi Đại Hùng Bảo Điện, Tổ đường, Hương Thuỷ điện, cổng Nam Thiên Môn, cùng các công trình hạng mục….đây là công đức vô lượng dâng lên cúng dàng Thầy Tổ, cũng như trang nghiêm ngôi Phạm Vũ.Sau hơn 10 năm, quần thể di tích danh lam thắng cảnh chùa Hương đã được phục dựng, trở nên hùng vĩ trang nghiêm như ngày nay đều nhờ vào công đức của Hoà Thượng.
Chùa Thầy xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây là trụ xứ tu hành của Đức Thánh Tổ Từ Đạo Hạnh triều đại nhà Lý, với cương vị là người Trụ Trì, Hoà Thượng đã tu bổ lại nhiều hạng mục, công trình khiến cho Thánh tích ngày càng thêm phần tôn nghiêm và phát triển. Với sự gia trì của Đức Thánh Tổ, Hoà Thượng đã dành hết tâm huyết của mình trong việc khêu sáng ngọn đèn truyền thừa Mật Pháp, do Tổ đã khởi lập cách đây cả nghìn năm về trước để lưu lại cho hậu thế.
Hoà Thượng luôn quan tâm đến việc truyền nối mạng mạch của Phật pháp nên Ngài đã thả thuyền từ tiếp chúng độ nhân, xúc dưỡng đệ tử.Trong mấy mươi năm, Hoà Thượng đã có cả trăm đệ tử xuất gia, trưởng thành đảm trách các chức vụ quan trọng trong Trung ương Giáo hội, cũng như các tỉnh thành phía Bắc. Ngoài ra còn có các Tăng Ni thụ Mật Pháp với Hoà Thượng tính đến có vài trăm vị, Phật tử có đến vài nghìn người được thọ Pháp với Ngài.
Hoà Thượng luôn nêu cao tinh thần lấy Trí Tuệ làm sự nghiệp chân chính của người xuất gia, nên mỗi khi xong công việc của Giáo hội trở về Phương Trượng, Hoà Thượng không quản ngày đêm, quên đi mệt mỏi bắt tay vào công việc nghiên cứu, dịch thuật, trước tác, xuất bản các ấn phẩm Phật giáo. Ngài đã để lại nhiều tác phẩm, dịch phẩm thông qua báo chí, tạp chí, xuất bản, như một số tác phẩm, dịch thuật tiêu biểu dưới đây:
1. Đại bi nghi quỹ
2. Chuẩn đề nghi quỹ
3. Lục độ Tara
4. Du già nghi quỹ
5. Lục đạo tập
6. Truy môn cảnh huấn
7. Bút ký bên cửa trúc
8. Khóa lễ phổ môn
9. Lược sử các tông phái Phật giáo
10. Xuân thu lễ tụng
11. Giới Phạm Võng
12. Chùa Hương ngày nay
13. Danh thắng chùa Thầy
14. Truyện Phật bà chùa Hương
15. Quan Âm Thị Kính
16. Kỷ niệm chùa Hương
17. Văn khấn Nôm truyền thống
18. Phim tài liệu Bầu trời cảnh Bụt
19. Phim tài liệu Bức tranh quê hương
20. Thuyền môn thi ký
21. Công tác xã hội
22. Nhân minh học
23. Đại Tỳ Lư Giá Na thành Phật kinh sớ (chưa xuất bản)
Đây là tâm huyết cả cuộc đời Hoà Thượng dành cống hiến cho Đạo pháp và dân tộc.
Với tinh thần nhập thế hành Bồ Tát đạo, ngoài Trụ trì hai đại danh lam Thánh tích lớn như chùa Hương, chùa Thầy và một số tự viện, cũng như các chức vụ của Phật giáo tỉnh Hà Tây và Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam giao phó, Hoà Thượng luôn nêu cao tinh thần “Từ Bi Hỷ Xả, Vô Ngã Vị Tha”, tận tâm kiệt lực với công việc, đó là trách nhiệm mà Ngài không bao giờ sao nhãng. Với công đức tu hành nghiêm mật của Hoà Thượng và những cống hiến của Ngài, Hoà Thượng được mời tham gia các hoạt động từ thiện xã hội. Năm 1994, Hoà Thượng là đại biểu HĐND xã Hương Sơn, HĐND huyện Mỹ Đức, là Đại biểu HĐND tỉnh Hà Tây khoá V, VI và VII. Dù ở cương vị nào Hoà Thượng cũngmang tinh thần lợi tha cho Đạo pháp và dân tộc.
Từ những đóng góp đó Hoà Thượng được Đảng, Nhà nước, Giáo hội tặng thưởng nhiều bằng khen, giấy khen như: Huân chương lao động hạng ba; Huy chương vì sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc; Huy chương vì sự nghiệp bảo tồn văn hóa dân tộc; Huy chương vì sự nghiệp nhân đạo…Đây là ghi nhận cao quý mà Đạo pháp và Dân tộc thành kính tri ân Hoà Thượng.
IV. VIÊN TỊCH
Với lòng bi mẫn vô lượng, công đức vô biên,những mong Hòa Thượng sẽ trụ thế lâu hơn nữađể hướng dẫn Tăng Ni và Phật tử trên con đường thực hành chân lý giải thoát giác ngộ.Nhưng các việc cần làm đã làm, việc giáo hóa chúng sinh đã thành tựu viên mãn, nên Hòa Thượng đã thị hiện thân bệnh, thuận lẽ vô thường, thâu thần thị tịch, trả lại tấm thân tứ đại cho trần gian mộng huyễn, lên thuyền Bát Nhãvân du miền Cực lạc diện kiến đức Như Lai vào hồi 18 giờ 40 phút ngày 31 tháng 05 năm 2002 (tức ngày 20/04/Nhâm Ngọ) trụ thế 53 năm, hạ lạp 32 năm. Sau khi Hòa Thượng viên tịch,trong tang lễ của Hòa Thượng, Hòa Thượng Thích Giác Toàn – Phó Viện trưởng HVPGVN thành phố Hồ Chí Minh trụ trì Tịnh xá Trung Tâm, Pháp viện Minh Đăng Quang, TP.Hồ Chí Minh đã cảm thán thơ rằng:
“Hương Tích ngàn năm mãi ngát hương
Chùa Thầy đạo hạnh sáng tròn gương.
Hà Tây Phật học còn in bóng
Phú Thọ hoằng khai đẹp Phật trường.
Năm mươi ba năm diệu ánh trăng
Năm mươi ba năm đạo Viên Thành
Năm mươi ba năm Thuần Hòa nhân thế
Năm mươi ba năm Nguyệt Trí thanh.”
Trong suốt năm mươi ba năm Hòa Thượng đã cống hiến cả cuộc đời mình cho Đạo pháp và dân tộc. Ngài luôn đề cao tinh thần hành Bồ Tát đạo trong việc giáo dục Tăng Ni, Phật tử với phương châm lấy trí tuệ làm sự nghiệp, lấy lợi tha làm phương tiện, lấy bố thí làm căn bản, lấy giáo dục để phát triển nên những đóng góp của Hòa Thượng cho Giáo hội Phật giáo Việt Namvô cùng to lớn, để lại trang sử vàng cho nền Phật giáo nước nhà. Công hạnh của Hòa Thượng mãi mãi được khắc sâu trong tâm khảm của Tăng, Ni, Phật tử cũng như môn đồ Pháp quyến. Trong ngày tiễn biệt Hòa Thượng về nơi cảnh Phật,Hòa Thượng Thích Trí Tựu – trụ trì Sắc Tứ Thiên Mụ tự, tỉnh Thừa Thiên Huế đã dâng ai điếu rằng:
“Trời Hương Sơn vần vũ
Chuông Thiên Mụ trầm ngâm
Kẻ ở người về trung Phật quốc
Tình hoài Pháp lữ giọt mưa chan”
Đặc biệt, Hòa Thượng đã làm sống lại và xiển dương dòng truyền thừa Mật Tông Việt Nam, duy trì mạng mạch, phát triển dòng phái Hương Tích mà chư Tổ đã để lại ngày càng phát triển rực rỡ. Hòa Thượng thật xứng danh là bậc Kim Cương tổng trì của Mật Tông Việt Nam sánh cùng với Mật Tông các nước trên toàn thế giới.
Đó là nền tảng căn bản mà Hòa Thượng đã để lại cho những thế hệ học Phật sau này tiếp nối trên con đường mà Ngài đã cống hiến, phụng sự và tuyên dương. Cuộc đời và Sự nghiệp tu hành của Hòa Thượng là Trí Tuệ sáng soi cho Tăng Ni, Phật tử hôm nay và muôn đời sau.
Viên minh thể tính hoằng khai chính Pháp độ quần sinh
Thành tựu bản tâm thệ nguyện mê đồ ly khổ hải.
Nam Mô Hương Tích Chính tông, Thiên Trùđường thượng, Hương Tích động chủ, Đệ thập nhất thế Tổ sư, Kim Cương Tổng Trì, Chân Tịnh bảo tháp, Ma-ha Sa môn Tỷ khiêu Bồ Tát giới,A-xà-lê Đại sư, pháp húy Thích Viên Thành, đạohiệu Thuần Hòa, tự Nguyệt Trí giác linh Tôn Sưthùy từ chứng giám.
Hà Nội, ngày 11 tháng 07 năm 2007
Luật Mật viện Thắng Nghiêm – Chùa Khúc Thủy
Pháp tử Tỷ Khiêu Thích Minh Thanh
Kính soạn